ĐÓN XUÂN MỚI 2009
DANH MỤC
Tin nhắn
Bình chọn
Bình chọn
Total of answers: 13
Main » 2009 » January » 19 » Pà kon chú ý! Đã post "LỊCH SỬ KHẨN HOANG MIỀN NAM" tại Tuyến điểm Miền Nam
Pà kon chú ý! Đã post "LỊCH SỬ KHẨN HOANG MIỀN NAM" tại Tuyến điểm Miền Nam
4:06 PM
LỊCH SỬ KHẨN HOANG MIỀN NAM (1)
Sơn Nam

MỤC LỤC
Nhà văn Sơn Nam
Lịch sử khẩn hoang miền Nam
Nhận xét tổng quát
Chương 1.1. Nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia
Chương 1.2. Nhu cầu xác định vùng biên giới Việt Miên
Chương 1.3. Nhu cầu chỉnh đốn về nội trị
Chương 1.4. Làng xóm, điền đất và người dân thời đàng cựu
Chương 2.1. Nghĩa quân thất trận và nông dân mất ruộng
Chương 2.2. Khái quát về việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ
Chương 2.4. Vùng Bạc Liêu, Cà Mau xa xôi và phức tạp
Chương 2.5. Cần Thơ, đầu cầu và thủ đô miền Hậu Giang
Chương 2.6. Những triệu chứng bất ổn
Phụ lục

Nhà văn Sơn Nam
Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài, sinh năm 1926 ở Kiên Giang. Hồi đầu thế kỷ, ông nội nhà văn đã đưa cả gia đình từ Cù lao Ông Chưởng ở Long Xuyên đến lập nghiệp ở ven rừng U Minh Cà Mau. Tuổi thơ của ông được tắm mình trong hương sắc của rừng U Minh với muôn vàn cỏ cây, hoa lá, chim muông. Ðó cũng chính là vốn sống và nguồn cảm hứng sáng tác được ông thể hiện trên các trang viết sau này.
Tác phẩm đầu tay của Sơn Nam là một tập thơ mang tựa đề Lúa reo, do Hội Văn hoá kháng chiến Kiên Giang xuất bản năm 1948. Năm 1951-1952, hai truyện ngắn Bên rừng Cù Lao Dung và Tây đầu đỏ, ông đã giành giải nhất trong cuộc thi do Uỷ ban Kháng chiến-Hành chính Nam bộ tổ chức. Tuy nhiên, ông lại nổi danh trên văn đàn là tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, xuất bản năm 1962. Đây là tập truyện ngắn được xếp ở vị trí cao trong số những tác phẩm văn học đặc sắc nhất của Nam bộ.
Ngoài truyện dã sử, truyện ngắn, Sơn Nam còn thành công cả ở những công trình biên khảo có hệ thống như Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Văn minh miệt vườn, Gia Ðịnh xưa, Bến Nghé xưa... Và đây cũng là những đề tài mà ông đeo đuổi suốt sự nghiệp. Nhà văn Sơn Nam tâm sự: “Lịch sử Nam bộ Việt Nam là lịch sử của công cuộc khẩn hoang trường kỳ và tự lực. Ý thức khẩn hoang mở đất ăn sâu vào máu thịt tôi. Ðời ông nội rồi đời cha tôi lo khẩn hoang, mở đất. Nên những trang viết của tôi dành cho việc khẩn hoang mở đất và thế là viết về khẩn hoang trở thành sở trường của tôi. Hơn nữa đây cũng là đề tài mà người dân Nam bộ rất quan tâm, bởi trong ký ức của những người Sài Gòn cũ, người Nam bộ cũ vẫn còn lưu giữ nhiều ấn tượng trong việc vật lộn với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên trong những ngày đầu mở đất, mở nước”.
Sơn Nam đi vào lòng bạn đọc như một nhà văn Nam bộ với tính cách đặc biệt Nam bộ, được bạn đọc tặng cho biệt danh “Ông già Nam Bộ”. Ông luôn đi theo con đường mà mình đã chọn: trở về với cội nguồn văn hoá dân tộc, với văn hoá Nam bộ bằng lối văn mộc mạc, chữ nghĩa giản dị gần gũi với đời thường.
Tác phẩm đã xuất bản:
• Chuyện Xưa Tích Cũ (truyện)
• Tìm Hiểu Ðất Hậu Giang (BK)
• Hương Rừng Cà Mau(truyện)
• Chim Quyên Xuống Ðất (truyện)
• Văn Minh Miệt Vườn (BK)
• Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam (BK)
• Hai Cõi U Minh (truyện)
• Vọc Nước Dỡn Trăng (truyện)
• Bà Chúa Hòn (truyện)
• Bến Nghé Xưa (BK)
• Cá Tính Miền Nam (BK)
• Ngôi Nhà Mặt Tiền (truyện)
• Một Mảnh Tình Riêng (bút ký)

Lịch sử khẩn hoang miền Nam
Lịch sử khẩn hoang miền Nam là kết quả quá trình tìm tòi, chắt lọc bằng kinh nghiệm sống mấy chục năm lặn ngụp trong vốn tư liệu quý của dân tộc của nhà văn Sơn Nam. Sách chia làm hai phần, phần thứ nhất đi sâu vào khảo cứu công cuộc mở rộng, phát triển xứ Đàng Trong; xác định vùng biên giới Việt – Miên; chỉnh đốn nội trị… Phần thứ hai chủ yếu đưa ra cái nhìn bản chất về các vùng đất Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ cùng những triệu chứng bất ổn của chế độ thực dân Pháp. Phần phụ lục phân tích các tài liệu liên quan đến hai biến cố quan trọng về quyền sở hữu đất riêng: Vụ Ninh Thạnh Lộc năm 1927 ở Rạch Giá và vụ Nọc Nạn năm 1928 ở Bạc Liêu. Dư luận mọi giới thời bấy giờ đặc biệt chỉ trích chính sách ruộng đất của thực dân. Xung quanh hai biến cố này có nhiều giai thoại truyền khẩu khiến chúng trở thành chuyện truyền kỳ.
Trong lời giới thiệu, tác giả ghi: “Đầu đề Lịch sử khẩn hoang miền Nam quá lớn, đòi hỏi sự làm việc cần cù, kiên nhẫn, lâu dài của một tiểu ban, một nhóm có thẩm quyền. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi đánh bạo, thử vạch một lối để trèo núi cao. Chắc chắn là có nhiều lối khác để đi tới đỉnh núi. Chúng tôi chỉ có hy vọng là dẹp một mớ sỏi gai, để thấy bóng dáng đỉnh núi…”. Song, điểm khởi đầu là công cuộc Nam tiến của cư dân Việt thế kỷ 16,17 đã cho thấy người viết phải có quá trình tích luỹ, dày công lật lại cả một vùng dân cư văn hóa đặc sắc Phù Nam, Óc Eo… Ông đã phân tích và chỉ rõ những lý do khiến vua chúa Việt Nam thúc đẩy việc khai hoang, đó là: 1/ Mở rộng địa bàn thống trị, đất rộng, dân giàu thì kinh đô được bảo vệ chu đáo hơn, 2/ Thuế điền và thuế đinh gia tăng nhanh chóng, 3/ Nạn đói kém được giảm thiểu, nơi này thất mùa, nơi kia bù lại, ít có nguy cơ nội loạn, 4/ Dân số tăng gia, thêm lính tráng, thêm dân xâu. Ngược lại, về phía dân chúng, khẩn hoang là việc tích cực, không phải là hưởng thụ, thụ động, chờ thời vận.
Cũng trong cuốn sách, tác giả đặc biệt quan tâm đến các vấn đề nổi cộm trong thời kỳ thực dân Pháp tác động mạnh đến việc khẩn hoang ở miền Nam như: tình trạng xáo trộn gia cư và tài sản; vấn đề lưu dân ở Sài Gòn; luật về đất công thổ; tình hình các tỉnh dưới mắt người Pháp…Sách khái quát việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ qua những số liệu thống kê cụ thể, phần lớn từ tài liệu của viên chức Pháp soạn ra.
Khi người Pháp đến, những vùng thuận lợi có sông rạch đều biến thành ruộng rồi. Trong thời kỳ cai trị của người Pháp, việc quan trọng hàng đầu phải kể đến là đào kinh xáng ở những nơi có thể làm ruộng được, tạo đường giao thông chuyên chở, rút bớt nước lụt, nước phèn. Sách đã dành nhiều trang nói về sức ảnh hưởng to lớn của kinh đào trong bước đường lập nghiệp của người nông dân. Đặc biệt kinh xáng Xà No có thể coi là công trình lớn lao đầu tiên của Nam kỳ về đường thuỷ, có thể so sánh với việc thiết lập đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho: “Kinh Xà No đào từ 1901 đến tháng 7/1903 là xong, bề ngang trên mặt rộng 60 mét, dưới đáy 40 mét tổn phí 3.680.000 quan. Lần này, nhà thầu sử dụng loại xáng lớn chạy bằng hơi nước, với những giàn gàu bằng sắt. Máy của xáng mạnh 350 mã lực, mỗi gàu sắt múc được 375 lít, thổi bùn ra xa đến 60 mét… Vài chuyện khôi hài đã xảy ra: một số dân chạy theo xáng, dùng thúng mà hứng bùn để tìm vàng, nhưng chỉ gặp xương người và xương thú. Nhiều người cho rằng cứ “cắm dùi” là đất ấy về phần mình, vì mình đến trước nhứt…”.
Một trong những phong trào tranh đấu của trí thức Cần Thơ có tầm ảnh hưởng quy mô là phong trào Duy Tân do Gilbert Trần Chánh Chiếu cầm đầu. Lật lại những báo cáo với thống đốc Nam kỳ của các viên chủ tỉnh ở Cần Thơ, tác giả Sơn Nam đã đưa ra những chứng cứ thuyết phục về tinh thần dân tộc của người Việt. Báo cáo năm 1910 – 1911 thú nhận: “Không có cuộc biến loạn, không có sự bộc lộ cụ thể nào xảy ra. Tuy nhiên dưới bề ngoài yên ổn này, ta nhận ra một cách dễ dàng là còn một phần của dân chúng – may thay số người này không đông đảo cho lắm - họ có thái độ đối lập và thài độ chỉ trích không nhân nhượng, tận gốc đối với tất cả những gì mà chánh quyền, những gì xuất phát từ phía người Pháp” (…) “Gilbert Chiếu được toà xử miễn tố, vì vậy mà họ càng lẫy lừng hơn, còn lại một số người đồng loã trong vụ án cũng được miễn tố…”.
Nhận xét tổng quát
Đồng bằng sông Cửu Long, Ménam và Irraouaddi là ba trung tâm sản xuất lúa gạo, có dư để xuất cảng, quan trọng nhứt trên thế giới. Việt Nam, Xiêm, Miến Điện gồm đa số dân sống bằng nghề nông. Ba quốc gia này liên ranh, nằm trong khu vực gió mùa với những nét lớn giống nhau:
- Lãnh thổ phát triển lần hồi từ Bắc xuống Nam.
- Biết làm ruộng cấy ở đồng sâu, nhờ đó mà sản lượng đạt mức cao so với ruộng tỉa ở đất khô.
- Mức sống thấp kém.
Nam tiến không phải là mãnh lực huyền bí của riêng dân tộc Việt Nam. Những dân tộc chịu ảnh hưởng ấn độ vẫn đạt được kỹ thuật cày sâu cuốc bẫm không kém nước ta. Việc tôn thờ rắn thần và rồng để cầu mưa, vài môn giải trí như thả diều, trai gái đối đáp nhau nào phải chỉ xảy ra ở Việt Nam.
Dân Việt gặp dân Miên vốn có nền văn hóa cổ kính khá cao. Vào thế kỷ 13, người Miên đã tìm ra giống lúa và dẫn thủy nhập điền thích ứng giúp họ thâu hoạch 3 hoặc 4 vụ trong một năm. Cuộc Nam tiến của người Xiêm, người Miến Điện gặp hoàn cảnh khá tốt về địa lý, hai con sông Ménam và Irraouaddi thuận lợi cho việc thông thương, trong khi Hồng Hà và sông Cửu Long có nhiều thác đá. Từ hạ lưu sông Hồng, dân Việt len lỏi theo mấy cánh đồng nhỏ bé dọc theo bờ biển Đông nhiều giông tố để lần hồi đến hạ lưu sông Đồng Nai, sông Cửu Long.
Tuy là đặt chân trên đất Cao Miên nhưng đối thủ đáng nể của người Việt đi khẩn hoang lại là người Xiêm đang nuôi tham vọng đô hộ vùng Vạn Tượng, Cao Miên và Mã Lai. Xiêm quốc lúc bấy giờ đang thời hưng thịnh, với tướng giỏi, quân sĩ có kinh nghiệm về chiến đấu đường bộ và đường thủy.
Người Việt đã giữ được thế chủ động trong hoàn cảnh gay go.
Khi đặt chân ở đồng bằng sông Cửu Long, nước Việt bị chia cắt từ sông Gianh, công trình khẩn đất và giữ đất lúc đầu chỉ do một số dân từ Quảng Bình trở vào gánh vác. Bấy giờ, ưu thế của người Việt khong là kỹ thuật canh tác cao, nhưng là ưu thế về tổ chức chính trị và quân sự. Bộ mấy hành chính khá hoàn hảo đã giúp chúa Nguyễn theo dõi được tình hình ở những địa phương xa xôi, quân đội có thể tập trung khá nhanh khi cần thiết. Đơn vị xã hội nhỏ nhất là thôn ấp đủ khả năng tự trị, các tổ chức đồn điền có thể tự quản trị về kinh tế và an ninh.
Quân đội Xiêm hùng mạnh, nhưng đi xa thì mất hiệu năng. Nước Cao Miên bấy giờ quá suy nhược, vua chúa kém năng lực chỉ biết cầu viện với ngoại bang, dân chúng thì ly tán: người Xiêm thường lùa bắt từng loạt dân Cao Miên đem về xứ họ để làm nông nô phục dịch.
Vua chúa Việt Nam thúc đẩy việc khẩn hoang vì những lý do sau đây:
- Mở rộng địa bàn thống trị, đất rộng, dân giàu thì kinh đô được bảo vệ chu đáo hơn.
- Thuế điền và thuế đinh gia tăng nhanh chóng.
- Nạn đói kém được giảm thiểu, nơi này thất mùa, nơi kia bù lại, ít có nguy cơ nội loạn.
- Dân số gia tăng, thêm lính tráng, thêm dân xâu.
Bộ Đinh và bộ Điền tiêu biểu cụ thể cho nhân lực, tài lực. Với binh sĩ giữ gìn bờ cõi và trấn áp nội loạn, với tiền bạc và nhân công làm xâu, vua chúa tha hồ phung phí, sống xa hoa, xây đắp cung điện lăng tẩm, ưu đãi người trong giòng họ, mua chuộc quan lại, để ngôi vị được ổn định, chống các âm mưu ly khai ở địa phương.
Về phía dân chúng, khẩn hoang là việc tích cực, không phải là hưởng thụ, thụ động, chờ thời vận.
* Phải có yếu tố thiên nhiên tương đối thuận lợi, đất quá thấp thì lúa dễ bị ngập, quá cao thì gặp nạn thiếu nước. Từ nơi cư trú đến thửa ruộng, đường đi phải gần để khỏi phí thì giờ lui tới, lúa đem về nhà không mất nhiều công lao và phí tổn chuyên chở.
* Đủ nước ngọt để uống, nấu cơm và cho trâu bò uống.
* Gia đình đủ vốn liếng, đủ lúa gạo ăn trong khi chờ lúa chín. Lại còn quần áo, tu bổ nhà cửa, thuốc uống, trầu cau, lúa gạo để nuôi heo gà, ghe xuồng, nông cụ. Thêm vào đó, còn yếu tố xã hội vì làm ruộng đòi hỏi sự hợp quần cần thiết:
- Sức một người, một gia đình chỉ có giới hạn. Một khoảnh ruộng ở giữa tư bề đất hoang thì hoa mầu sẽ bị chim chuột từ các vùng lân cận tập trung lại phá nát. Năm bảy gia đình góp sức canh tác liên ranh nhau thì sự tổn thất vì chim chuột được giảm thiểu.
- Mùa cấy tuy là co giãn, xê xích mươi ngày nhưng nằm trong thời gian quy định. Cấy quá sớm, thiếu nước, cấy quá trễ, cây lúa mọc không kịp nước mưa. Mỗi người chỉ có thể cấy chừng 4 mẫu tây trong một mùa mà thôi, đàn bà lo cấy ở nơi này thì đàn ông lo dọn đất ở nơi kia. Dọn đất cấy quá sớm, cỏ mọc trở lại, trì hoãn thì nước trong ruộng lên cao, không dọn đất được. Lúa chín mà gặt trễ chừng năm bảy ngày là hư hao.
Phát cỏ, cấy lúa, gặt lúa đòi hỏi sự tập trung nhân công, mướn hoặc đổi công, theo lịch trình không được bê trễ. Phải nhờ người lân cận hoặc ở địa phương khác đến. Ngay trong một khoảnh đất nhỏ, mặt đất chưa bằng phẳng, nơi cao nơi thấp, việc đắp bờ, tát nước vẫn là công trình của nhiều người.
Vùng định cư để khẩn hoang cần liên lạc với vùng phụ cận dễ dàng để giải quyết vấn đề nhân công. Trong một ấp, nhà này không được ở quá xa nhà kia. Gần thôn ấp, phải có nơi bán tạp hóa, có người cho vay, người tiêu thụ lúa. Việc sanh đẻ, cưới hỏi, may chay đòi hỏi các phương tiện tối thiểu. Nhà cửa, tính mạng người dân phải được bảo vệ, chống trộm cướp, loạn lạc. Lại còn nhu cầu học vấn, nhu cầu về tâm linh với đình, chùa, miễu, hát xướng.
Đơn vị tối thiểu về xã hội vẫn là một làng.
Khẩn hoang đòi hỏi nhiều yếu tố căn bản. Khẩn hoang ở đồng bằng sông Cửu Long là cuộc vận động lớn, toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa.
Vua chúa quy định chính sách điền địa, thuế khóa, quân dịch và thưởng phạt. Tùy nhu cầu mà có khi quân sĩ, lưu dân và tù nhân phải đóng đồn, lập ấp, cày cấy ở nơi mất an ninh. Đất kém mầu mỡ, khó canh tác nhưng chính quyền lại cưỡng bách đến định cư. Có những giai đoạn, những khu vực mà chính phủ kiểm soát chặt chẽ việc khẩn hoang, nhưng cũng có lúc người dân được dễ dãi. Nhiều vùng đất tuy người Cao Miên chưa chánh thức nhượng cho ta nhưng dân ta đã đến khẩn hoang, hoặc ngược lại, đã nhượng từ lâu nhưng vẫn còn hoang phế.
Cuộc vận động phối hợp quân sự, chính trị và kỹ thuật này có thể chia ra từng thời kỳ:
1) Từ các chúa Nguyễn đến những năm cuối đời Gia Long: Khai khẩn vùng đất phù sa tốt, đất giồng ven sông, đất cù lao theo nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia.
Còn lại các vùng nước ngập sâu vào mùa mưa, đất quá phèn, rừng Sác. Vùng người Miên tập trung, trên nguyên tắc thì để nguyên vẹn (Rạch Giá, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc).
Thành lập các trấn Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Vĩnh Thanh.
2) Từ cuối đời Gia Long tới cuối đời Minh Mạng: Khai khẩn phía hữu ngạn Hậu Giang, nối qua vùng đồi núi Thất Sơn, vì nhu cầu xác định biên giới Việt Miên. Khai khẩn vùng đồi núi, vùng đất thấp, canh tác những lõm đất nhỏ mà cao ráo, giữa vùng nước ngập lụt.
Thành lập tỉnh An Giang, tách ra từ trấn Vĩnh Thanh.
3) Từ đời Thiệu Trị tới đời Tự Đức: Khai khẩn những điểm chiến lược, nhằm đề phòng nội loạn ở phía Hậu Giang, chánh sách đồn điền được thúc đẩy mạnh.
Thực dân Pháp đến, nhằm mục đích bóc lột nhân công rẻ tiền, và xuất cảng tài nguyên, đã thực hiện được vài việc đáng kể:
1) Cho đào kinh để chuyên chở lúa gạo, giúp giao thông vận tải được dễ dàng, đồng thời rút bớt nước vào mùa lụt từ Hậu Giang ra Vịnh Xiêm La. Vùng đất phèn, tạm gọi là phù sa mới, không còn bị nước ngập quá cao. Việc chuyên chở sản phảm về Sài Gòn ít tốn kém hơn trước.
Thành lập các tỉnh mới: Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, vùng này trở thành nơi dư lúa gạo, nhờ dân ít mà mức sản xuất cao. Khai khẩn rừng tràm và đồng cỏ.
2) Thúc đẩy việc làm ruộng sạ, nhờ chọn các giống lúa thích hợp hơn, giúp vùng đất thấp ở Long Xuyên, Châu Đốc và Đồng Tháp Mười canh tác được. Còn lại là vùng rừng Sác Cần Giờ, rừng Đước Cà Mau, vùng than bùn U Minh, vùng đất quá nhiều phèn chung quanh Hà Tiên và Đồng Tháp Mười.
3) Lập đồn điền cao su ở miền Đông.

Views: 537 | Added by: 2-lua-di-tour | Rating: 0.0/0 |
Total comments: 2
2 khanghuynh  
0
post tiếp tập 2 đi anh luá?

1 clb3v  
0
Ok đó 2 lúa! welcome back respect

Only registered users can add comments.
[ Registration | Login ]
Đăng nhập
Lịch đăng bài
«  January 2009  »
SuMoTuWeThFrSa
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
25262728293031
Tìm kiếm
Trang Ucoz
Số liệu thống kê

Trang web được thiết kế bởi CLB HDV 3V © 2024
Create a free website with uCoz